Chùa Bồ Đề (Thiên Sơn tự – Long Biên, Hà Nội)

Giới thiệu

Chùa Bồ Đề được gọi là “Thiên Sơn Tự” hoặc “Thiên Cổ tự” là một ngôi chùa cổ có lịch sử xây dựng lâu đời.

Chùa có tên là “Bồ Đề” vì ngày xưa trong làng có hai cây bồ đề cao, nổi bật giữa những làng quê ven sông Hồng, ngang đỉnh tháp chùa Báo Thiên ở trong Kinh thành Thăng Long bên kia sông. Chùa nằm ở thôn Phú Yên, xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, cách cầu Chương Dương bên bờ Bắc khoảng 500m về hướng Nam, hiện nay nằm trong quận Long Biên, thành phố Hà Nội. Đây là ngôi chùa duy nhất cho phụ nữ và cũng là nơi ấm áp tình thương chăm sóc và che chở trẻ mồ côi.

3. Chùa Bồ Đề (Nguồn chuaviettoancau.com)

Lược sử

Theo truyền thuyết, chùa được xây trên khu đất Bồ Đề của Lê Lợi khi vua bao vây thành Đông Quan vào năm 1472. Các tài liệu lịch sử cho biết: “Vua xây nhiều tầng lầu ở khu đất Bồ Đề trên bờ sông Lô, cao bằng tháp Báo Thiên, hàng ngày vua ngồi trên lầu quan sát vào trong thành xem giặc đang làm gì”. Tấm bia cổ được dựng năm Hoằng Định thứ 15 (1614) đời Lê Kính Tông ghi lại việc xây lại chùa và khen ngợi “Đại công đức Bồ Đề” của vua Lê Thái Tổ.

Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho rằng chùa được xây dựng từ cuối đời nhà Trần, trên một gò đất cao được gọi là Núi Trời (còn được gọi là Thiên Sơn). Sau đó, do bị chiến tranh tàn phá, vào năm 1614, chùa đã được tái thiết lên nền chùa cũ và công đức được khắc in vào hai quyển kinh Pháp Hoa để lưu truyền.

Đến giữa thế kỷ XVIII, chùa lại bị hủy hoại trong chiến tranh. Vào năm Giáp Tuất đời Tự Đức 27 (1874), đại sư Thích Nguyên Biểu, tự hiệu Nhất Thiết đại sư (1835 – 1906) đến đảm nhiệm trụ trì và đã tôn tạo lại chùa trên nền móng cũ. Ni sư Thích Đàm Lan đã trở thành trụ trì từ năm 1972 cho đến nay.

Kiến trúc

Kiến trúc chung của chùa bao gồm nhiều công trình như: chùa chính, nhà Tổ, Điện Mẫu, nhà khách, khu mộ tháp, nhà ở, bếp và các công trình phục vụ khác. Đáng chú ý nhất là chùa chính với kiến trúc gồm hai phần là Tiền đường và Thượng điện được xây dựng liền nhau theo lối kiến trúc chữ Đinh.

5. Chùa Bồ Đề (Nguồn chuaviettoancau.com)

Tiền đường có 5 gian 2 chái, có 4 mái cong các góc, sàn lót gạch. Sàn chùa được làm cao hơn để tránh nước ngập mùa lũ với 11 bậc thềm cao gần 2m, hai bên thềm có đôi Sấu đá mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê. Tiền đường có 6 hàng chân, trên là giá chiêng, giữa là kẻ chuyền, dưới là kẻ, riêng gian giữa làm cốn với phía trung phía trước và phía sau là thông gió.

Xung quanh tiền đường là hiên được xây dựng suốt cả trước và hai bên, phía ngoài có tường hoa lan can chắn, phía trong hiên có cửa dạng bức bàn ở cả trước và hai bên. Toàn bộ Tiền đường có khung bằng gỗ Tứ thiết. Trên mái Tiền đường có ghi niên đại trùng tu chùa năm Nhâm Dần (1902). Trên kiến trúc Tiền đường có các chạm khắc mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn như: lá cúc, cúc dây, hoa lan ở cốn và các kẻ, họa tiết đơn giản trên kiến trúc gỗ mài trơn, ghép bén, sắc sảo.

Thượng điện của chùa có mái vòm bê tông, bên ngoài có xây ba tầng lầu gác Chuông, mái được làm cong 2 tầng chồng nhau tạo cho kiến trúc nhẹ nhàng hơn. Hậu cung đã được sửa lại sau chiến tranh. Tại Tiền đường có các tượng thờ Phật gồm: Đức Ông, Thánh Tăng cùng Diệm Nhiên, Đại sĩ ở Tiền đường. Tam bảo gồm các tượng: Tam thế, A Di Đà, Văn Thù – Phổ Hiền, Di Đà giảng đạo, A Na Ca Diếp, Ngọc Hoàng, Cửu Long; ở hai bên Tam Bảo có tượng Địa Tạng và Quan Âm. Hầu hết các tượng Phật trong chùa được tạo ra trong thời Nguyễn. Ngoài ra, chùa còn có 5 đôi câu đối gỗ, cửa võng thiều châu, hoành phi, đây là những cổ vật trang trí đẹp, mang phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ XIX.

Ở phía trước sân chùa có hai nếp nhà, bên phải là Điện Mẫu, bên trái là Nhà Tổ. Cả hai nếp nhà này đều được làm bằng bê tông giả gỗ, kiến trúc của Hậu cung vẫn tuân thủ nguyên tắc, tường hồi bít đốc tay ngai có trụ biểu, nhưng mái lợp ngói đã được thay thế, mang theo dáng vẻ bên ngoài của kiến trúc cổ truyền. Trong Điện Mẫu và Nhà Tổ có các tượng Tổ và Mẫu, mới có linh vị của Thượng tọa Thích Tâm Tịch.

Trong Nhà Tổ và Điện Mẫu có nhiều đồ cổ như: câu đối, hoành phi, cửa võng thiều châu, khám thờ, được dân gian cung tiến và nhà chùa khôi phục gần đây. Bên phải của chùa chính là khu nhà khách, nhà học dưới của các sư, các công trình phục vụ sinh hoạt của nhà chùa.

Di vật

Trong những di vật cổ của chùa có 4 tấm bia đá có niên đại: Hoằng Định thứ 15 (1614), Minh Mệnh thứ 19 (1838), Thành Thái thứ 17 (1905), Khải Định thứ 5 (1920). Ba tấm bia thời Nguyễn ghi tên những người công đức tu sửa, gửi giỗ ký hậu ở chùa.

Đánh giá

Chùa Bồ Đề có liên kết chặt chẽ với lịch sử truyền thống của kinh đô Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội, là nơi ghi lại quá trình xây dựng và phát triển của lịch sử địa phương, các tài sản cổ trong chùa đều mang giá trị lịch sử. Chùa Bồ Đề trở thành một di tích lịch sử văn hóa đẹp trong quần thể các di tích ở quận Long Biên. Chùa cũng là nơi được chọn làm trụ sở đào tạo và học hành của Thành hội Phật giáo Hà Nội.

Tham khảo

  • https://phatgiaohanoi.vn/chua-bo-de-long-bien.html
  • https://vi.wikipedia.org/
  • https://chuabode.com.vn/duan/gioi-thieu-ve-chua-bo-de-long-bien-ha-noi/
  • https://dulichdiaphuong.com/du-lich/du-lich-chua-bo-de-672.html

Related Posts