Trảng Bàng – Vùng đất trung tâm của Phật giáo Tây Ninh (Phí Thành Phát)

Chính ngay từ những lúc ban đầu, khi di dân từ miền nam mở rộng vùng đất Trảng Bàng, các nhà sư đã mang đạo Phật đến và truyền bá vào những vùng đất mới, trong đó có Trảng Bàng (Tây Ninh). Phật giáo sớm trở thành tôn giáo đồng hành cùng cư dân và gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Nam Tây Ninh[1].

DẤU ẤN PHẬT GIÁO BUỔI ĐẦU MỞ CỔI

Quá trình khai phá vùng đất Tây Ninh của người Việt bắt đầu mạnh mẽ từ đầu thế kỷ XIX, sau khi triều đình cho xây dựng con đường Thiên lý (đường Sứ). Đồng thời, nhiều đợt di dân từ khắp nơi đến Tây Ninh và lập nên một số làng mới. Song song với đó, hàng loạt ngôi chùa được xây dựng để đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân Việt và khẳng định quá trình định cư của họ, đặc biệt sau khi nhà Nguyễn xây dựng phủ Tây Ninh vào năm Mậu Tuất (1838). Các ngôi chùa xây dựng trong nửa đầu thế kỷ XIX chủ yếu tập trung ở khu vực Trảng Bàng, Gò Dầu và TP Tây Ninh.

Chùa Huỳnh Long, do Hòa Thượng Liễu Dương – Thiên Tường thuộc phái Thiền Lâm Tế, dòng Tổ Đạo đời thứ 37 khai hoang và thành lập từ năm Đinh Dậu (1777), là một trong số những ngôi chùa đầu tiên ở Trảng Bàng. Chùa Huỳnh Long còn giữ chiếc chuông gia trì, trên nó có minh văn viết: “沐 恩 平 安 村 信 女 阮 氏 寳 奉 供 寳 隆 寺 旹 绍 治 柒 年 正 月 吉 日 造” (Mộc ân, Bình An thôn, tín nữ Nguyễn Thị Bửu phụng cúng Bửu Long tự, thời Thiệu Trị thất niên (1847) chánh ngoạt kiết nhựt tạo), cho biết trước đây chùa có tên là Bửu Long và sau đổi lại thành Huỳnh Long[1].

Phật giáo ở Trảng Bàng và Tây Ninh nói chung đã có những dấu ấn của sự du hóa từ các vị Tăng đến từ nhiều nơi, đặc biệt là từ vùng Sài Gòn – Gia Định. Hòa Thượng Liễu Linh – Chơn Ứng thuộc thế hệ thứ 37 dòng Lâm Tế Tổ Đạo từ tổ đình Phụng Sơn ở Gia Định – Chợ Lớn (nay thuộc quận 11, TP Hồ Chí Minh) đã đến xứ Cầu Xe, Trảng Bàng thành lập chùa và được gọi là “chùa Cầu Xe”. Chùa Huỳnh Long và chùa Hội Phước là hai ngôi cổ tự được thành lập sớm tại Trảng Bàng và đã lan rộng phái Lâm Tế Tổ Đạo trong khu vực này[1].

Ban đầu, người dân thường xây dựng am tranh để thờ Phật và các vị thần bảo hộ cho cư dân theo niềm tin tín ngưỡng dân gian. Theo truyền thống, Nguyễn Thị Trinh (pháp danh Chơn Trinh) là người phụ nữ từ Gò Đen bước vào vùng đất Trảng Bàng với tư cách là một nữ sư theo học đạo và nghề thuốc với Hòa Thượng Thiên Tường tại chùa Huỳnh Long. Sau đó, bà đã cải tạo am tranh gần trang để tu hành, thờ Phật và bốc thuốc chữa bệnh cho người dân trong vùng. Điều này cũng là nguồn gốc cho tên gọi “Trảng Bàng” ngày nay[1].

Sau đó, Ni cô Chơn Tăng Tự Tiên Cốt, người từ vùng Gò Đen đến du hành và dừng chân cùng bà Đồng tại am tranh, đã lập chùa và là tiền thân của chùa Phước Lưu. Qua đó cho thấy sự đóng góp từ sớm của Ni giới Phật giáo trong vùng[1].

Từ năm 1900, chính quyền Pháp thành lập tỉnh Tây Ninh và đặt Trảng Bàng làm quận trung tâm ở phía Nam tỉnh. Chùa Phước Lưu trở thành chùa trung tâm lớn nhất quận Trảng Bàng và vùng Nam Tây Ninh vào thời điểm đó. Chùa này đã góp phần vào việc mở rộng dòng truyền thừa của phái Lâm Tế Liễu Quán, một dòng Phật giáo phổ biến ở Tây Ninh có nguồn gốc từ chùa Linh Sơn Tiên Thạch (núi Bà Đen, Tây Ninh)[1].

Chùa Linh Sơn, còn được gọi là “chùa Cà Nhen” trong tiếng Khmer cổ, do Hòa Thượng Quảng Vân thành lập, là 1 trong những chùa giữ lại tượng thần Vishnu và Bà La Môn – những di vật của nền văn hóa Óc Eo từ lâu đời ở vùng biên giới[1].

Việc sinh hoạt Phật giáo tại các chùa và tổ đình ở Trảng Bàng được tổ chức theo quy củ thiền môn. Hoằng pháp độ sanh là hoạt động chính của Phật giáo ở Trảng Bàng. Ngoài ra, các chùa mở lớp Gia giáo dạy về Phật học và các môn học khác để đào tạo các thế hệ Tăng tài cho Phật giáo. Các chùa còn lồng vào các môn học như khoa nghi ứng phú, Nho học, Y học,… để mở rộng kiến thức cho Tăng sinh. Việc giảng dạy và đào tạo ở Trảng Bàng diễn ra trong nhiều chùa và tổ đình[1].

Các vị sư ở Trảng Bàng cũng chú trọng biên soạn kinh sách, khoa nghi và các tác phẩm văn học khác để truyền bá đạo pháp. Nhiều tác phẩm Hán Nôm đã được các Tổ sư biên soạn, bao gồm các quyển: Du Già Đại Khoa Thí Thực Nghi niên đại Càn Long nhị niên (1797), Mộc Dục khoa nhất quyển, Trí Linh khoa nhất quyển, Tịnh Trù khoa nhất quyển, Cấp Thủy khoa nhất quyển, Thỉnh Thánh khoa nhất quyển, Lược Phát khoa nghi, Hành Trì Phát Tấu khoa nghi, Hiến Thập Cúng khoa nghi[1].

Các vị sư cũng cho khắc mộc bản về pháp phái và các vấn đề khác. Các chùa ở Trảng Bàng còn giữ nhiều mộc bản như chùa Long Tiên, chùa Vĩnh An và tổ đình Phước Lưu[1].

Các chư Tổ ở Trảng Bàng cũng quan tâm đến việc độ chúng và cung thỉnh vào hội đồng Thập sư vùng Nam Bộ. Các vị Tăng cũng thường biên soạn các tác phẩm về nghi lễ Phật giáo và hướng dẫn sinh hoạt tại các chùa. Cô lập các lớp Gia giáo và lớp đào tạo để học Phật học và nghi lễ Phật giáo[1].

Với những sự kiện lịch sử và đóng góp lớn cho đạo hạnh của các chư Tổ, Tăng Ni và người dân, Trảng Bàng được công nhận là vùng đất trung tâm của Phật giáo Tây Ninh. Phật giáo đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân và góp phần vào phát triển của vùng này[1].

Chú thích:

1. Ủy ban Nhân dân tỉnh Tây Ninh (2006), Địa chí Tây Ninh, tr.513. 2. Trí Thông (2010), Lịch sử Chùa Am, Nxb Tôn giáo, tr.38-55. 3. Thích Gia Quang (chủ biên) (2015), Chùa Việt Nam (tập 1), Nxb Tôn giáo, tr.994. 4. Vương Công Đức (2016), Trảng Bàng phương chí (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Tri thức, tr.151. 5. Nguyễn Đình Tư (2008), Từ điển địa danh hành chính Nam Bộ, Nxb Chính trị Quốc gia, tr.854.

Related Posts