X

TẢI Bản đồ hành chính huyện Côn Đảo, Bà Rịa – Vũng Tàu khổ lớn 2023

Tải Bản đồ hành chính huyện Côn Đảo, Bà Rịa – Vũng Tàu kích thước lớn 2023

Bản đồ huyện Côn Đảo sẽ giúp bạn tìm hiểu thông tin về vị trí tiếp giáp, ranh giới và địa hình của khu vực này. Tải Bản đồ hành chính huyện Côn Đảo, Bà Rịa – Vũng Tàu kích thước lớn 2023

Giới thiệu vị trí địa lý huyện Côn Đảo tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Huyện Côn Đảo đã được thành lập từ năm 1802, gồm 16 hòn đảo lớn và nhỏ nằm giữa đại dương. Đây là một quần đảo nằm ngoài khơi biển Nam Bộ của Việt Nam, thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Huyện có diện tích tự nhiên là 76 km², cách thành phố Vũng Tàu 97 hải lý và cách cửa sông Hậu 45 hải lý.

Huyện Côn Đảo có tiềm năng phát triển du lịch, khai thác và chế biến hải sản, xây dựng cảng biển và phục vụ các dịch vụ liên quan đến dầu khí và hàng hải. Với bờ biển dài 200km, huyện có nhiều bãi biển đẹp như bãi Đất Dốc, bãi Cạnh, bãi Đầm Trầu, bãi Hòn Cau, bãi Hòn Tre… Ngoài ra, còn có Vườn Quốc gia Côn Đảo với diện tích gần 6.000ha trên đất liền và 14.000ha trên mặt biển, với đa dạng cây cỏ và các loài động vật quý hiếm.

Côn Đảo còn được biết đến với hệ thống nhà tù khủng khiếp của Pháp và Mỹ, bao gồm các trại giam lớn như trại Phú Hải, Phú Sơn, Phú Tường, Phú Bình, chuồng cọp, chuồng bò và khu nhà Chúa Đảo, cùng với khu nghĩa trang Hàng Dương nơi chôn cất 20.000 tù nhân chủ yếu là các chiến sĩ cách mạng trong hai thời kỳ kháng chiến.

+ Diện tích và dân số: Diện tích tổng cộng của huyện Côn Đảo là 91,46 km², dân số khoảng 8.360 người. Mật độ dân số đạt 110 người/km².

Ý nghĩa tên gọi:

Côn Đảo hoặc Côn Sơn là tên được dùng để chỉ hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này. Các tài liệu lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn.

Theo các nhà nghiên cứu, tên gọi Côn Lôn có nguồn gốc từ tiếng Mã Lai, cụ thể là “Pulau Kundur” (nghĩa đen là “hòn Bí”). Người châu Âu phiên âm thành Poulo Condor (trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp). Tên này cũng được biết đến trong tiếng Khmer dưới dạng “Koh Tralach”.

Vào năm 1977, Quốc hội Việt Nam quyết định sử dụng tên gọi chính thức là Côn Đảo cho đến ngày nay.

Môi trường sống ở Côn Đảo rất trong lành, với nhiệt độ trung bình khoảng 26 – 27 độ C suốt cả năm. Tất cả những điều trên đều là tiềm năng du lịch của Côn Đảo, với nhiều hình thức du lịch phong phú như du lịch tắm biển và nghỉ ngơi, du lịch tham quan các di tích lịch sử, du lịch sinh thái (lặn, câu cá, leo núi, tham quan rừng và sinh vật biển…). Mỗi năm, Côn Đảo thu hút hàng trăm nghìn du khách đến tham quan. Du khách khi đến Côn Đảo có thể nghỉ ngơi tại các cơ sở lưu trú đầy đủ tiện nghi như khách sạn Phi Yến, Sài Gòn Tourist và nhà khách Vườn Quốc gia Côn Đảo.

Ngoài du lịch, Côn Đảo còn là một trung tâm ngư trường và khai thác hải sản của tỉnh và khu vực phía Nam. Chính phủ trung ương và tỉnh đã đầu tư xây dựng cảng cá Bến Đầm dài 336m để phục vụ tàu cá có sức chứa 2.000 tấn. Huyện cũng có một đội tàu cá khá lớn, hàng năm đánh bắt khoảng 10.000 tấn hải sản các loại.

Côn Đảo chỉ cách đường hàng hải quốc tế (trục Bắc – Nam) khoảng 60km. Từ Côn Đảo, có thể đi tàu lên phía Bắc đến Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hải Nam, Thẩm Quyến và Hồng Kông. Nếu đi xuống phía Nam, có thể đi đến các nước Đông Nam Á như Singapore, Indonesia, Malaysia, Campuchia, Thái Lan. Trong tương lai, khi kênh đào KRA ở Thái Lan được mở, nối liền giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, Côn Đảo sẽ trở thành ngã tư giao thông biển quốc tế.

Trong những năm gần đây, cuộc sống và hoạt động của người dân ở Côn Đảo đã có phần phát triển. Đường sá, sân bay và bến cảng đang được nâng cấp và cải tạo. Cuộc sống của ngư dân trên đảo cũng trở nên sôi động với các dịch vụ hậu cần phục vụ ngành cá từ các tàu cá của các tỉnh lân cận. Số lượng du khách trong và ngoài nước đến Côn Đảo cũng ngày càng tăng. Hiện nay, ngoài hai tuyến bay từ Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh) và Vũng Tàu, Côn Đảo còn có 5 chiếc tàu chở khách có 100 chỗ nằm và 3 chiếc tàu chở hàng có sức chứa từ 50 đến 250 tấn. Khi đến Côn Đảo, ngoài việc tham quan và nghỉ ngơi, du khách cũng có thể khám phá quần đảo và tìm hiểu về quá khứ qua những di vật còn lại trên đảo.

Theo kế hoạch, tại Bến Đầm, sẽ xây dựng 4 cảng: cảng hải sản ở khu vực nước sâu 6 – 8m đã hoàn thành, cảng Dịch vụ kỹ thuật dầu khí ở khu vực nước 8 – 15m và cảng Hải quân ở cửa họng Đầm.

Bản đồ hành chính huyện Côn Đảo mới nhất

Thông tin cơ bản huyện Côn Đảo tại Bà Rịa – Vũng Tàu

Dựa vào các khảo cổ học, các nhà nghiên cứu cho rằng Côn Đảo đã có sự hiện diện của con người từ thời tiền sử dựa vào những công cụ và đồ dùng được tạo ra từ sơ kỳ thời tiền kim khí và có quan hệ chặt chẽ với gốm cổ thời Sa Huỳnh tại Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ.

Mặc dù nằm xa đất liền, nhưng do có vị trí thuận lợi trên tuyến hàng hải nối liền giữa châu Âu và châu Á, Côn Đảo sớm được người phương Tây biết đến. Những bản ghi chính đầu tiên về quần đảo này được thương nhân người Ả Rập sống vào thế kỷ IX ghi lại và được tài liệu của Pháp trích dẫn, đề cập đến một quần đảo có tên là Sender-Foulat (hoặc Cundur-fũlát) nằm ở vùng biển phía Nam Trung Quốc.

Theo học giả người Pháp Gabriel Ferrand: Cundur-fũlát là cách đọc cổ, Sundur-fũlát là cách đọc hiện đại; có nghĩa là những hòn đảo trái bí (les iles de la courge) trong tiếng Mã Lai. Ông cũng khẳng định rằng đây chính là đảo Poulo Condore, nằm cách đồng bằng sông Mekong 40 dặm về phía Nam, tương ứng với vị trí của quần đảo Côn Đảo ngày nay.

Trong tác phẩm du ký của thương gia người Ý Marco Polo, ông đã ghi chép vào năm 1294 rằng, trong một chuyến đi từ Trung Quốc trở về quê hương, đoàn thuyền buôn của ông bị một cơn bão làm chìm 8 chiếc, nhưng số còn lại đã đến Côn Đảo và được ghi nhận với tên gọi Poulo Condore.

Trong thời kỳ từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI, có nhiều đoàn thủy thủ và nhà thám hiểm châu Âu ghé qua và thăm quan Côn Đảo.

Vào cuối thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII, các thương gia và nhà đầu tư Anh, Pháp đã bắt đầu quan tâm đến các nước Đông. Có nhiều lần các công ty thương mại của Anh, Pháp đã gửi người đi tìm hiểu và khảo sát Côn Đảo với mục tiêu chiếm đóng quần đảo này.

Vào năm 1702, trong thời kỳ thứ 12 của Chúa Nguyễn Phúc Chu, giám đốc Công ty Đông Ấn của Anh đã chỉ huy quân đánh bộ tấn công Côn Đảo và xây dựng các pháo đài và cột cờ.

Sau 3 năm, vào ngày 3 tháng 2 năm 1705, xảy ra cuộc nổi dậy của quân lính Macassar (người Sulawesi). Đoàn quân Anh buộc phải rời bỏ Côn Đảo.

Ngày 28 tháng 11 năm 1783, trong chuyến về Pháp mang vương tử Cảnh và vương đính của Chúa Nguyễn Ánh, Pigneau de Béhaine tự đại diện cho Nguyễn Ánh để ký kết một hiệp ước với Bá tước De Mantmarin (đại diện cho vua Louis XVI của Pháp), được gọi là Hiệp ước Versailles. Đây là văn kiện đầu tiên nhượng lại chủ quyền vùng biển Touron và quần đảo Côn Lôn cho Pháp. Trong quá trình đàm phán, Pháp đã cam kết giúp Nguyễn Ánh với 4 tàu chiến, 1.200 lính, 200 pháo thuỷ và 250 người lính Phi để đối phó với nhà Tây Sơn. Tuy nhiên, do cuộc cách mạng Pháp nổ ra, Pháp không thực hiện cam kết này.

Theo truyền thuyết, trong đợt thứ 3 của cuộc truy sát của nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh và đoàn quân của ông đã trốn tới Côn Lôn. Ông sống ẩn dật trong một thời gian dài trên đảo này. Vì vậy, hiện nay trên đảo Côn Sơn có một ngọn núi cao được gọi là núi Chúa và ở làng An Hải có đền thờ của Nguyễn Ánh là Hoàng Phi Yến, còn ở làng Cỏ Ống có Miếu Cậu thờ Hoàng tử Cải, con trai của Hoàng Phi Yến.

Vào thời kỳ Gia Long, theo Đại Nam nhất thống chí, Côn Đảo thuộc quyền quản lý của đạo Cần Giờ, trấn Phiên An và tổng trấn Gia Định (thành phố Gia Định).

Đến năm 1822, đại sứ nước Anh John Crawfurd trong hành trình đi sứ tại Xiêm và Cochin China đã ghé thăm và khám phá Côn Đảo.

Trong thời kỳ thuộc Pháp, vào ngày 1 tháng 9 năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng và chiếm đóng bán đảo Sơn Trà, sau đó chuẩn bị tấn công Huế.

Vào tháng 4 năm 1861, Pháp chiếm đóng Định Tường. Trong thời gian này, Pháp đã nhanh chóng chiếm đóng Côn Đảo để tránh việc Anh có thể chiếm vị trí chiến lược này.

Vào lúc 10 giờ sáng, ngày 28 tháng 11 năm 1861, Thủy sư đô đốc Hải quân Pháp Louis Adolphe Bonard ban lệnh cho tàu Norzagaray đi chiếm đảo Côn Đảo và tung cờ Pháp.

Trung úy Hải quân Pháp Lespès Sebastien Nicolas Joachim lập biên bản “Tuyên bố chủ quyền” của Pháp tại Côn Đảo.

Ngày 14 tháng 1 năm 1862, tàu Nievre đưa một số nhân viên xuống đảo. Những người này có nhiệm vụ tìm vị trí thuận lợi để xây dựng một hải đăng tạm thời tại Côn Đảo nhằm chống lại bất kỳ hành động phản kháng nào từ các quốc gia khác.

Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Huế ký kết Hiệp ước Nhâm Tuất với Pháp. Khoản 3 của Hiệp ước ghi rõ rằng nhà Nguyễn phải nhường toàn bộ quyền chủ quyền của Côn Lôn cho Hoàng đế Pháp. Nguyễn (2012) cho rằng, việc Pháp đánh chiếm Côn Lôn năm 1861 được ép buộc là do Anh phản đối. Lý do của Anh là, việc Pháp chiếm đảo dựa trên một hiệp ước không có hiệu lực (tức là Hiệp ước Versailles năm 1783).

Trong thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV công bố danh sách các đơn vị hành chính ở Nam Việt, trong đó có tỉnh Côn Sơn.

Ngày 24 tháng 4 năm 1965, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Côn Sơn thành Cơ sở Hành chính Côn Sơn trực thuộc Bộ Nội vụ. Chức Tỉnh trưởng được đổi thành Đặc phái viên hành chính.

Ngày 1 tháng 5 năm 1975, quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp quản Côn Đảo.

Tóm tắt lịch sử hành chính:

Trước thời thuộc Pháp, Côn Đảo thuộc tỉnh Hà Tiên, sau đó thuộc tỉnh Vĩnh Long.

Ngày 16 tháng 5 năm 1882, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh công nhận quần đảo Côn Lôn là một quận của Nam Kỳ.

Tháng 9 năm 1954, dưới chính quyền Quốc gia Việt Nam, Thủ tướng Ngô Đình Diệm tiếp tục áp dụng chế độ tù đày của Pháp và đổi tên quần đảo Côn Lôn thành quần đảo Côn Sơn.

Ngày 22 tháng 10 năm 1956, dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143/NV đổi tên các tỉnh thành ở Nam Việt, trong đó thành lập tỉnh Côn Sơn.

Ngày 24 tháng 4 năm 1965, tỉnh Côn Sơn đổi thành Cơ sở hành chính Côn Sơn, trực thuộc Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa. Chức Tỉnh trưởng được đổi thành Đặc phái viên hành chính.

Ngày 1 tháng 11 năm 1974, dưới thời Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Cơ sở hành chính Côn Sơn đổi tên thành thị xã Phú Hải thuộc tỉnh Gia Định. Các trại tù cũng được đặt tên thêm Phú: Trại I thành Trại Phú Thọ, Trại II thành Trại Phú Sơn, Trại IV thành Trại Phú Tường, Trại V thành Trại Phú Phong, Trại VI thành Trại Phú An, Trại VII thành Trại Phú Bình và Trại VIII thành Trại Phú Hưng. Trong thời kỳ này, số tù nhân đã lên đến 8.000 người.

Ngày 18 tháng 9 năm 1976, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 164-CP thành lập huyện Côn Sơn trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 15 tháng 1 năm 1977, Quốc hội Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VI, kỳ họp thứ 2 thông qua nghị quyết phê chuẩn việc đổi tên huyện Côn Sơn thành huyện Côn Đảo và sáp nhập huyện Côn Đảo vào tỉnh Hậu Giang.

Ngày 30 tháng 5 năm 1979, huyện Côn Đảo sáp nhập vào thị xã Vũng Tàu và xã Long Sơn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai để thành lập đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo trực thuộc trung ương. Ngày 10 tháng 12 năm 1979, Côn Đảo trở thành quận trực thuộc đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo.

Ngày 12 tháng 8 năm 1991, đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo giải thể và Côn Đảo trở thành huyện thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu như hiện nay.

Hiện nay, Côn Đảo là một huyện có chính quyền độc lập, có các cơ quan chính quyền huyện trực tiếp điều hành các hoạt động trên địa bàn, không có các cấp đơn vị phụ thuộc như xã, phường hay thị trấn.

admin: